Quẻ Quan Thế Âm Khương Nữ Tầm Phu có bắt nguồn như sau: Mạnh Khương Nữ tương truyền là người thời Tần.Tần Thủy Hoàng bắt trai tráng đi phu xây Trường thành
Quẻ Quan Thế Âm Lý Tịnh Quy Sơn là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm !"Thác Tháp Thiên Vương" Lý Tịnh là nhân vật "Phong thần bảng" và "Tây du ký".
Đây là điển cố thứ Bốn chín trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Vương Tường Cầu Lý (còn gọi là Vương Tường Tìm Cá Chép). Quẻ Quan Thế Âm Vương Tường Cầu Lý
Quẻ Thăng là quẻ thứ 46 trong Kinh Dịch gồm quẻ Tốn bên dưới quẻ Khôn. Mộc trong Thổ phát triển lên trên và có ý nghĩa là đạt được trạng thái phát triển đều đặn. Đây là quẻ rất may mắn vì nó hàm ý những thành công lớn và hiển nhiên. Nó cũng hàm ý là con đường sự nghiệp cũng như đường đời sẽ không gặp trở ngại. Không có cản trở trong việc đạt đến điều mong ước. Quẻ Tốn thuộc hành mộc nằm trên mặt đất. Nó phát triển lên trên và trở thành một cây lớn. Ý nghĩa ẩn dụ của nó là mang đến may mắn và được diễn giải trong Kinh Dịch.
Sao Thái âm ở cung Mão là hãm địa tọa thủ một mình, dường như không sáng, bôn ba lao lực, có duyên phận bạc với cha mẹ, từ nhỏ đã rời xa quê hương, tự lực phấn đấu
Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngày giỗ, tết.
Trong một trùng quái bao gồm có 6 hào, ghép lại từ 2 quẻ đơn là quẻ thượng và quẻ hạ. Quẻ dơn nào có chứa hào động gọi là Quẻ Dụng, quẻ đơn không chứa hào động gọi là Quẻ Thể.
Với khả năng lý giải các nguyên lý và quy luật của vạn vật trong vũ trụ, Kinh Dịch đang trở thành một môn khoa học được ứng dụng ngày càng phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh.
Quế: Quế sống nhiều ở phía Nam của Trung Quốc, có rất nhiều loại như: đan quế, kim quế, ngân quế, nguyệt quế, điện quế, liễu diệp quế... Trong đó, đan quế,kim quế, ngân quế được lấy tên theo màu sắc của hoa mỗi loại là: đỏ, vàng, trắng. Quế hương nở