VỊ TRÍ CÁC HÀNH TINH TRÊN MAèT ( HÌNH VẼ ) HÀNH NIÊN VỊ TRÍ ĐỒ
( Vị trí các hành tinh trên nét mặt )
Trán : 1) Thiên trung. 2) Sơn lâm. 3) Biên thành. 4) Nguyệt giác. 5) Nhật giác. 6) Phát giác. 7)
Thiên đình. 8) Tư không. 9) Phủ. 10) Phụ. 11) Phần mô. 12) Khưu lăng. 13) Thi hà. 14) Lăng vân.
15) Trung chánh. 16) Tử khí. 17) Phần hà.
Mũi : 18) Aán đường. 19) Sơn căn.
Mắt : 20) Trung dương. 21) Trung âm.
Gò má : 22) Thiếu âm. 23) Phụ nhỉ. 24) Quyền. 25) quan điện. 26) Thái âm.
Sống mũi : 27) Niên thượng. 28) Thọ thượng. 29) Chuẩn đầu.
Gò má : 30) Gián đài. 31) Đinh úy. 32) Pháp lịnh.
Miệng : 33) Quy lai. 34) Kim lả. 35) Tai. 36) Ba bì. 37) Nga áp.
Cằm : 38) Địa các. 39) Trung đường.
Môi : 40) Thủy tinh. 41) Thừa tương. 42) Lộc tương. 43) Tiên phủ. 44) Nhân xung. 45) Thực thương.

HỮU TRẮC DIỆN ĐỒ ( HÌNH VẼ )
1) Sơn Lâm. 2) Biên Thành. 3) Nguyệt Giác. 4) Phụ Giác. 5) Phụ Bậc. 6) Tử Khí. 7)
Phúc Đường. 8) Trủng Mộ. 9) Phúc Đường. 10) Quý Huyện. 11) Mạng Môn. 12)
Phụ Nhỉ. 13) Tai. 14) Nô Bộc. 15) Ba Trì Nga Aùp. 16) Aán Đường. 17) Sơn Căn.
18) Pháp Lịnh. 19) Thọ Thượng. 20) Chuẩn. 21) Định Uùy. 22) Pháp Lịnh. 23)
Nhân Xung. 24) Thừa Tương. 25) Địa Các. 26) Quang Điện. 27) Ngọa Long Gia.
28) Tam Cung Vận. 29) Quyền. 30) Gia Môn. 31) Thiên Thương.

THẬP NHỊ CUNG SẮC TƯỚNG
Cũng như khoa tử vi, khoa tướng diện của Trung Hoa cũng chia gương mặt ra làm 12 cung để định sang hèn, quý của tiện con người. Trên mặt người nào cũng đều biểu tượng của 12 cung. Cung nào tốt ắt có phát đạt. Cung nào xấu lẹp bẹp chẳng hạn thì cung đó bị ảnh hưởng xấu. 12 cung chia ra như sau :

Cung mạng : là đường sống mũi.
Cung bào : là hai chân mày.
Cung điền : là hai con mắt.
Cung tử hay Nam Nữ : dưới lối hai con mắt, là lệ đường.
Cung Nô Bộc : là hải hầm nơi địa các.
Cung thê thiếp hay phu quân : là ngự vỉ ( hai màng tai ).
Cung tật ách : ở sơn căn giữa sống mũi.
Cung Thiên Đô : nơi thiên thượng, nơi má chân mày.
Cung Quan Lộc : nơi trung chánh ( chính giữa trán ).
Cung Phúc Đức : liên quan thiên thượng và địa các.
Cung tướng diện : cung toàn diện trước mặt.
Cung mạng ứng về vận mạng
Cung mạng ở trên sơn căn, nằm giữa đôi lông mày, tức là ấn đường. Aán đường mà sáng sủa đầy đặng thì học hành thông minh. Phẳng đầy ở sơn căn là phúc thọ. Có đôi mày giao tiếp nhau là số hèn hạ. Mũi đứng sững hỗ trợ cho ấn đường ắt phú quý vinh hoa. Aán đường nổi gân rối loạn thì truân chuyên, lưu lạc phong trần, khắc vợ, ít con. Nếu tráng hẹp, lông mày khô ắt gặp vận long đong khó hèn.

Cung tài bạch ứng về tiền bạc
Mũi thuộc tài, linh ứng về của cải. Đầu mũi như cái mặt heo, sống mũi thẳng tắp, không gãy, thì giàu có vô cùng. Ngay thẳng, chon von, người ắt gặp một đời sung túc, hanh thông, nếu được trung tránh chẳng lệch thì thật hoàn toàn tốt đẹp mới được phú quý lâu bền. Tướng bần hàn, cay đắng thì lỗ mũi nhọn cao như chim ưng.Mũi hếch lên trống lỗ, nghèo hèn có khi không gạo nấu. Lỗ mũi bóng, sáng ửngđỏ đến huê vượng tài lộc.

Cung huynh đệ hoặc cung bào: ứng vào anh em
Cung này ngồi ở hai lông mày. Nếu dài hơn mắt thì anh em đông, năm sáu người mà lại hòa thuận, không sát nhau. Lông mày thưa thì anh em đoan chính. Lông mày như vòng cung kiến vách của địa cầm lý thấp nghiêng là tướng làm ơn mắc oán.

Cung thuê thiếp, hay phu quân: ứng về vợ chồng.
Ngôi ở ngư vỉ, nhàem vị gian môn là đuôi mắt. Nếu bằng phẳng đầy đặn, không vằn thì vợ chồng tài đức gồm đủ ( vợ có tài tề gia nội trợ ) vợ chồng có của. Nếu gian môn sâu hãm làtướngø lấy vợ chồng liền tay. Ngư vỉ nhiều vằn phòng vợ chồng coi chừng bịnh. Gian môn thâm xám vợ chồng ly tan, có nốt ruồi đen hay có vằn xé vợ dâm đãng ngoại tình.

Cung tật ách: ứng về tật bệnh.
Ngồi ở sơn căn dưới ấn đường cao dầy sáng bóng, tước lộc gồm hai tướng sống lâu, không bệnh tật.
Sơn căn cao bằng niên thượng và thọ thượng. Nếu sơn căn ngắn và thấp là tướng yếu hay bệnh tật.
Chỉ có xương mà không thịt là tướng suốt đời thọ khổn. Sắc sơn căn mù mịt, ám tối cần nên đề phòng tai ách vây quanh.

Cung thiên di: ứng về sự xê dịch ra ngoài.
Ngôi ở góc trên chân mày, tức thiên thương. Nếu cao đầy phẳng, thì ra ngoài mười phần lợi ích, quý nhân giúp đỡ tài lộcphong đinh. Sáng xây lên đến vị dịch mã là tướng làm quan đi khắp bốn phương, thiên thương hãm là tướng vô sở vô tông cho đến già. Lông mày liền giao nhaulà tướng phá thống ttỏ nghiệp.

Cung phước đức: ứng phúc âm tổ tiên để lại.
Ngôi ở thiên thương là địa các: trán, mũi, mắt và hai tai, tức năm tinh nếu được triển cũng toàn vẹn thì phúc nhân đầy đầy, thiên đình địa các chấn hầu thì đức hạnh đầy đủ. Cực khổ long đong từ thuở thiếu thời thì có tran.
Cằm tròn gian truân tuổi lão niên, thì có tráng rộng cằm nhọn tướng thì có mày cao mắt xếch.
Cung quan lộc: ứng về công danh và sự nghiệp

Ngôi ở trung chánh giữa trán, trộn hạp với ly cung, phục tây. Thấu đinh thì suốt đời thanh thản, chẳng đến cửa công. Khi sáng sủa, bóng bảy, bằng phẳng là tướng vinh hiển trong đời. Có tráng cao, có góc, cạnh thì trong đời thường bị thưa gửi. Tráng có vằn, xấu bỉ nát trong đời luôn gặp chuyện trái ngang. Trung chánh xấu, thêm mắt đỏ như cá chép ắt bị tội tình chẳng sai.

Cung tướng mạo.
Cung tướng mạo là cung toàn diện của tướng mặt ứng chung vào vận mạng của toàn thể.
Người vinh hoa phú quý thì ngũ nhạc đầy đủ, đều đặn. Người hiển đạt trong đời tam đình đều nhạc ngũ nhạc triển cao, thù quan lộc hạng. Trông người người tôn trọng thì có dáng điệu đi đứng oai nghiêm.

MUỐN BIẾT NGƯỜI GIÀU NGHÈO RA SAO?
Tráng là nơi tụ tập trí tuệ, cần cao, đẹp thì trí óc mới thông minh. Gò má tượng trưng cho oai quyền phải cao đầy, nếu lép thì cũng chẳng có quyền, mà cũng chẳng có oai gì cả. Mũi biểu tượng cho sự giàu sang khỏa phải cao. Phải thẳng thì mới tốt. Cằm là chỉ sự vinh hoa, phú quý, an lạc phải vuông, phải rộng mới đẹp.

Tất cả năm nhạc đều phải cân xứng thì con người mới phú quý song toàn. Còn kém khuyết đi, hay không tương xứng ắt con người khó mà làm nên danh phận, hoặc giàu sang vinh hiển. Sách có câu: " ngũ nhạc triều cống , phúctự nhiên lai" nghiã là năm nhạc mà tương xứng thì phúc trời cho được hưởng.

Tứ Độc: tức là tượng trưng cho 4 con sống và biểu thị cho 4 cơ quan trên bộ mặt. Đó là sông lớn, sông nhỏ, sông Hoài và sông tế.
Tai là sông lớn, ( giang ). Mắt là sông nhỏ (hà).
Miệng là sông hoài. Mũi là sông tế.
Tai phải đẹp sâu và rộng, vành trong, vành ngoài phân minh thì gia nghiệp được bền vững, khỏi lo sụp đổ tổn hao.
Mắt phải sáng đẹp, tròng đen, tròng trắng phân minh thì ắt người thông minh, sang quý.
Miệng rộng và vuông là nhứt. Mũi như cá lúi là sấu. Hai môi trên dưới đều nhau, hai môi không khép hết, miệng môi mỏng, môi dày, thì người khó hưởng phúc lộc trời. Đã không giàu sang mà còn kém thọ nữa.
Mũi cần cao lớn đầy thẳng, tròn và sáng, không lộ không hỉnh lên, không khuyết thì được phú quý, gia đình hạnh phúc ấm êm.

Tam đình :
Bộ mặt chia làm tam đình : Thượng, Trung biết Hạ Đình.
Tam Đình cân phân, đồng đều, sáng sủa thì trọn đời sung túc giàu sang và hạnh phúc gia đình. Về già còn được hưởng lộc, không vất vả.

Thượng đình :từ chân tóc đến chân mày, ứng với trời. Kẻ quý sang, có tráng cao và rộng. Thành vách rõ ràng sáng sủa. Kẻ hèn thì trán thấp hẹp hay méo mó, khuyết hãm, có thể bị khắc cha hay mẹ, còn bị tù đày nữa là khác. Thượng đình hắc hãm không bị tù đày cũng bị đau ốm, hoạn nạn.

Trung đình : Từ chân mày đến mũi, ứng với người. Mũi mà ngay thẳng, cao đầy là người thông minh thọ và sang. Sống mũi xẹp, gãy cụt là kẻ bất nhân bất nghĩa, côi cút không ai đỡ đầu, giúp đỡ. Tuổi thọ cũng bị giảm thiểu, trung niên lận đận, phong ba hao tài tốn của, thiếu thốn tiền bạc.

Hạ đình : từ nhơn trung xuống đến địa các là cằm ứng với đất. Phần hạ đình mà rộng, dày có da thịt nở nang, tề chỉnh thì ắt được giàu sang. Nếu phần hạ đình nhỏ hẹp lẹm nhọn, xiên lệnh đó là kẻ nghèo khó, tiền bạc, nhà cữa cũng không, về già vất vả truân chuyên, thiếu thốn cơ cực đủ điều.

Thượng trung và hạ đình là thiên, địa, nhân nếu tốt đẹp, ngay thẳng, cân phân thì thật là hoàn mỹ. Cuộc đời sung túc, vinh hiển, hạnh phúc ấm êm. Nếu xiên lệch hay kém khuyết một phần khó mà làm nên.

Xem tam đình, ta cũng biết người tốt, xấu, sang hèn, nên tam đình là điểm quan trọng ở bộ mặt. Ngũ quan tức là tai, mày, mắt, mũi, miệng. Năm quan này mà tốt đẹp, tất được vinh quý khôn cùng. Tai tức là thính quan. Mày là bảo thọ quan ( chủ sự sống lâu ). Mắt là quan sát quan. Mũi là thẩm hiện quan ( phán xét mùi vị ).Miệng là xuất nạp quan ( thu chi tiếng nói ). Sách nhân luân đại thống có câu : " Người được một trong ngũ quan tốt đẹp thì vinh hiển 10 năm.

Nếu được một phủ tốt đẹp ( hai địa khố ) hai thiên thương và hai gò má thì phong phú 10 năm". Và theo sách thần tướng toàn biên thì người ngũ quan tốt đẹp cả, thì cuộc đời sang trọng vô cùng, tốt không thể nói.

NGŨ TINH :
Ngũ tinh gồm có trán là hỏa tinh, mũi thổ tinh, tai phải là mộc tinh, tai trái là kim tinh, miệng là thủy tinh.

Cũng như ngũ quan, nếu ngũ tinh mà tốt đẹp thì cũng tốt không thể nói phú quý, vinh hoa tột bực. Được tốt trong hai ngũ tinh cũng khá tốt đẹp rồi.

Trán là hỏa tinh : trán mà thấp, hẹp, bị chếch một bên thì ắt khắc cha mẹ, công danh khó thành đạt, như vậy thổ tinh đã bị hại. Trán nhọn, thô, xấu, có nhiều vết nhăn cũng xấu, khó làm nên việc lớn. Người sớm có tài nghệ, đắc lộc tai quan thì trán rộng, đầy đặn, chân tóc lại cao kiểu thổ tinh đó là tốt nhất. Người thông minh chí khí hơn người mới có chiếc trán này.

Mũi là thổ tinh : Chuẩn đầu ( chót mũi ) cần phải mập, má đầy, hai lỗ mũi không hếch lên Niên thượng ( lỗ mũi hếch thì hèn hạ, đa dâm ) thọ thương ngay thẳng đầy đặng, được phước, lộc, thọ hoàn toàn. Nếu cong hay nhọn không thịt và lỗ lộ ra ắt
nghèo khó hèn hạ, tánh tình gian trá.

Tai phải là mộc tinh ­ tai trái là kim tinh : Luân ( là thành tai, vành tai ). Quách tai ( vành trong ) mà phân minh đều đặng, mà trắng hồng, trong sáng dưới trên cân xứng vừa phải không mỏng mà cũng không nhô lên nhọn hay nhỏ và cao hơn chân mày, như vậy mới là tướng đại quý. Trái lại nếu nhọn và nhỏ đó là tướng hèn, vô học mất tiền của, cuộc đời thì long đong rày đây mai đó.

Miệng là thủy tinh : miệng đàn ông phải rộng và vuông ( miệng đàn bà rộng thì không tốt ) răng đều, môi đỏ nhân trung sâu là tướng sang phú quý. Nếu trái lại răng xấu môi vêu, khóe miệng trệ xuống đó là bần tiện, cả đời thiếu ăn thiếu mặc.

Lục diện :
Mắt trái là thái dương, nếu sáng thì phước lộc có dư, trọn đời ăn sung mặc sướng, phúc đức được hưởng giàu sang.
Mắt phải là thái âm, tròng đen đầy đủ, đẹp đẽ trong suốt, trai ắt có danh phận, quan quyền, gái được quý hiển, lấy chồng hiền, đáng ngôi mệnh phụ.
Sơn căn là Mộc Đức ngay thẳng thì ăn mặc đầy đủ.
án đường là tí khí tròn trịa thì ắt có công danh, quyền tước.
Mày là trái La Hầu, dài đẹp suông không rối ắt hưởng lộc niên trường.
Mày phải là Kế Đô : dài bằng con mắt, thì vợ con đầy đàn.

Lục phủ :
Lục phủ là hai thiên thương tức là nơi hai mái tóc trên chân mày, lưỡng quyền ( hai gò má ) và hai địa khố hai bên ở cằm phía miệng tượng trưng cho ba giai đoạn trong một đời người từ tuổi hoa niên đến lão niên giàu nghèo như thế nào?

Lục phủ là kho chứa tiền bạc, xem kỹ mấy nơi đó là biết được sự giàu nghèo của bạn ra sao. Trong ba giai đoạn đó thiên thương là lép khuyết ở hai bên thì lúc tuổi hoa niên gặp nhiều cay đắng về tiền bạc. Lưỡng quyền thấp hẹp thì trung niên lận đận lao đao về kế sinh nhai. Địa khố không đầy, không rộng thì lão niên khổ cực đến lúc tuổi già vẫn còn long đong.

Lục phủ được hoàn toàn, nở đầy đặng không khuyết không hãm thì tài lộc vượng. Thiên hương nổi lên là giàu sang, y lộc phong túc. Địa các vuông đầy thì ruộng rất nhiều, lão niên xung sướng an nhàn.

Hai kho trên là thiên thương hai kho giữa là Địa Khố. Nếu có kho trên là thiên thương mà không có kho dưới là Địa Khố thì trước giàu sau nghèo. Nếu có kho giữa là lưỡng quyền và hai kho trên, dưới không có thì cuộc đời chẳng ra gì, chỉ được khá ở khoảng trung niên, lúc còn trẻ và trở về già thì nghèo khó cô độc long đong.

Do dó, khi ta muốn biết người nào giàu nghèo ra sao ta chỉ xem lục phủ là biết ngay. Đó là yếu quyết xem tướng bất chợt của người vậy.

XÉT ĐOÁN TỔNG QUÁT VỀ KHOA CHIÊM TINH, LÝ SỐ, CĂN MẠNG CỦA MỖI NGƯỜI :CÔNG DANH, SỰ NGHIỆP, TÌNH DUYÊN
Phàm con người hễ sinh ra, trước hết người ta đã tìm ra nguyên thủ của sự cấu tạo thành gồm có Thiên can và Địa chi để người đó số mạng của họ ra sao, sanh vào ngày nào, tháng mấy, năm gì, rồi sau đó người ta mới lập nên lý số để giải đoán căn mạng. Cũng do theo đó mà đời vua Phục Hy (nước tàu ) soạn thành năm lịch phân định lấy quả đất làm 12 hướng về trời và làm 10 phương cho nên mới gọi là Thập ­ Nhị ­ Địa ­ Chi và thập Thiên Can. Vì vậy mà có Can tức là Giáp, Aát, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Cứ đi vòng 10 năm thì trở lại và Can ấy người ta ghép với 12 địa chi như sau : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và cũng vì vậy mà người ta gọi như năm 1973 là Quý Sửu, 1974 là Giáp Dần, 1975 là Aát Mẹo, 1976 là Bính Thìn, 1977 là Đinh Tỵ, 1978 là Mậu Ngọ, 1979 Là Kỷ Mùi, 1980 là Canh Thân, 1981 là Tân Dậu, 1982 là Nhâm Tuất, 1983 là Quý Hợi, song rồi cũng tính trở lại 1984 là Giáp Tý, và Kế Tiếp là át Sửu... Và sau đó phân định ra một năm 12 tháng và soạn thành lịch và cũng căn cứ theo bắc đẩu mà chuyển lần đi cứ một phía là một tháng và khởi đầu tính từ tháng Giêng và tháng Hai, Ba rồi kế tiếp đến tháng 12 (chạp ) rồi sau đó cũng trở lại là tháng Ba cũ sắp theo tháng và đối chiếu như sau :

Tháng Giêng  tức là  Tháng Dần
Tháng Hai -- Tháng Mẹo
Tháng Ba -- Tháng Thìn
Tháng Tư -- Tháng Tỵ
Tháng Năm -- Tháng Ngọ
Tháng Sáu -- Tháng Mùi
Tháng Bảy -- Tháng Thân
Tháng Tám -- Tháng Dậu
Tháng Chín -- Tháng Tuất
Tháng Mười -- Tháng Hợi
Tháng Mười Một -- Tháng Tý
Tháng Chạp -- Tháng Sửu
Rồi thì sau đó cũng tính trở lại, thế là 12 địa chi. Bây giờ người ta phối hợp với 10 thiên can và 12 địa chi và khởi đầu từ giáp đi cùng với dần, vì vậy gọi là giáp dần ( từ năm 1974 ) và sắp theo bảng phân định như sau :

Tháng Giêng tức là Giáp Dần
Tháng Hai -- át Mẹo
Tháng Ba -- Bính Thìn
Tháng Tư -- Đinh Tỵ
Tháng Năm -- Mậu Ngọ
Tháng Sáu -- Kỷ Mùi
Tháng Bảy -- Canh Thân
Tháng Tám -- Tân Dậu
Tháng Chín -- Nhâm Tuất
Tháng Mười -- Quý Hợi
Tháng Mười Một -- Giáp Tý
Tháng Chạp -- át Sửu

Và cứ như thế mà tiếp tục cho nên can bính gép với chi dần và bắt đầu từ tháng giêng và tính theo năm mà từng tự người ta lấy can và chi mà song hành ấn định niêng lịch và khởi đầu từ năm giáp tý rồi từng tự mà luân chuyển đi, cũng do đó là sau 10 năm là hết một giáp, nghĩa là thời gian qua phải là 10 năm tức là 10 can.


trắc Sao Thiên la mành kết Cầu thang bói bài tarot về tình yêu trong tương lai đào hộp bản Ma Kết nam sao địa võng tướng mông phụ nữ bái sơn vÃ Æ Có tranh ảnh chấn Ð Ð ÐµÑ Ñ cung hoang dao am Đinh sửu bế 12 cung hoàng đạo đi thi b quý giá Lê Trung Dương tinh cach nguoi tuoi ty họ Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong đăng Lệ bã æ Cáºi dáng bàn tay hướng bếp Cái Mộ chết trùng tang cách trồng cây xanh trong nhà theo phong Tử vi 2017 mơ thấy bố bôn giải thần gió Sao Phục Binh ở cung mệnh Ngũ hành Hỏa Bị sua du phòng